Nhưng trước hết, để có một ít khái niệm về trống đồng, chúng tôi xin phép trích thuật một số những thông tin cần thiết liên hệ đến trống đồng, mà chúng tôi đã đọc được trên mạng Wikipedia,[1] cũng như trong bài viết “The Present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China” của tác giả Han Xiaorong, một nghiên cứu sinh tiến sĩ sử học Đại học Hawaii,[2] với những đoạn ý chính như sau: I. Đại đa số trống đồng cổ đều được tìm thấy ở Bắc Việt Nam và Tây Nam Trung Quốc (đặc biệt là tỉnh Vân Nam và khu tự trị người Tráng ở Quảng Tây). Trong một báo cáo năm 1988, Trung Quốc cho biết, đã tìm được 1460 trống đồng. Còn Việt Nam tính đến thấp niên 1980 cũng cho hay, đã tìm được 960 chiếc, trong đó có 540 chiếc thuộc loại trống đồng Đông Sơn. Ngoài ra, trống đồng còn được tìm thấy ở nhiều nước khác, như Indonesia, Thái Lan, Myanma, Lào, Campuchia, Malaysia, Philippines và Nhật Bản, nhưng số lượng không đáng kể. II. Cũng có nhiều cách phân loại trống đồng, nhưng cho đến nay hầu hết các nhà nghiên cứu trống đồng chấp nhận cách phân loại năm 1902 của nhà khảo cổ học người Áo, Franz Heger, và được chia thành 4 loại (xin trích nguyên văn của Wikipedia): Trống Heger I, còn được nhiều người gọi là trống Đông Sơn. Trống loại này thường lớn, thân trống hình trụ thẳng đứng. Mặt dưới để trống, mặt trên có hình sao đúc nổi với 12 cánh. Trên một số trống, chỉ có 8 cánh sao, như trống đồng Quảng Xương, hoặc 14 cánh như trống đồng Ngọc Lũ, Sông Đà, Thượng Lâm. Hoặc 16 cánh như Hoàng Hạ, Salayar [ở Indonesia]. Trống loại này được tìm ở khắp vùng Đông Nam Á, nhưng tập trung nhiều nhất ở Việt Nam. Tiêu biểu nhất là các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, và Sông Đà. Trống đồng Hoàng Hạ, loại Heger I, trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Trống Heger II: thân trống chỉ có 2 phần [tang và chân], không có hình người hay vật nữa, thay vào đó toàn là hoa văn hình học. Trên mặt trống thường có hình khối 4 con cóc, đôi khi 6 con. Mặt trời có 8 tia. Loại này phân bố ở vùng Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc; ở Việt Nam cũng có nhiều loại trống này và còn được người Mường sử dụng, nên có người gọi là trống Mường. Trống đồng Lạng Sơn, loại Heger II, trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Trống Heger III có quai nhỏ đẹp. Mặt trời có 12 cánh. 4 góc mặt có cóc, thường là 3 con chồng lên nhau thành 12. Trang trí toàn bằng họa tiết hình học và hoa văn. Dưới chân có đoàn voi đúc nổi đi chung quanh cây “đời sống”. Đôi khi ốc thay voi. Được phát hiện ở Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanma và Vân Nam (Trung Quốc). Trống đồng Tân Độ, loại Heger III, trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Trống Heger IV có kích thước thường nhỏ, không có cóc. Ngôi sao bao giờ cũng 12 tia, nhiều khi rõ tên 12 con vật địa chi. Tìm thấy ở Trung Quốc và Việt Nam. Trống đồng Long Đọi Sơn, loại Heger IV, trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. III. Cũng theo cách phân loại của Heger nói trên, trống Heger Đông Sơn được cho là cổ nhất, và học phái khảo cổ học Việt Nam đã ủng hộ cách phân loại này. Còn học phái khảo cổ học Trung Quốc đa số ban đầu phủ nhận phân loại của Heger và cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại II mới là cổ nhất. Tuy nhiên, từ khi loại trống Vạn Gia Bá (万家坝), gần giống với trống Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn, được tìm thấy ở Vân Nam vào năm 1976, thì các học giả Trung Quốc lại quay về thống nhất với cách phân loại của Heger và khẳng định loại trống Vạn Gia Bá là nguồn gốc của mọi loại trống Heger, tức cổ nhất trên thế giới; đồng thời, cũng khẳng định Vân Nam là quê quán của trống đồng. Trong khi ấy, ở Việt Nam thập niên 1980 cũng đã tìm thấy loại trống Vạn Gia Bá này, nhưng được các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi là trống Thương Nông và được coi như là loại trống thuộc giai đoạn cuối của loại trống Đông Sơn. Và theo học phái Việt Nam, thời gian xưa nhất của trống đồng Đông Sơn là vào khoảng thế kỉ thứ 7 hoặc thứ 8 TCN. Nhưng học phái Trung Quốc lại bác bỏ thời gian này và cho rằng loại trống Vạn Gia Bá của họ phần nhiều được đúc vào khoảng giữa thế kỉ thứ 7 và thứ 5 TCN, còn trống Đông Sơn chỉ được đúc vào khoảng giữa thế kỉ thứ 6 TCN và thế kỉ thứ 1 SCN. IV. Cuối cùng, vì phương pháp dùng than C14 đã không thể cung cấp thông tin chính xác, nên cả hai học phái Việt Nam và Trung Quốc đều tìm cách lí giải về những hình ảnh chạm trỗ trên trống đồng, như hình chim đang bay, hình cóc (hay ếch nhái), hình ghe thuyền, v.v… để luận giải thêm về ý nghĩa văn hóa. Nhưng tất cả đều không đạt kết luận thống nhất về nguồn gốc căn cước của trống đồng. Mà một trong những nguyên nhân này, theo Han Siaorong, tác giả bài viết nói trên, đó chính là: “tất cả các học phái ấy đều đứng trên lập trường quốc gia của họ [...] vì lí do chính trị hơn là vì ý nghĩa nghiên cứu chuyên nghiệp [...] Đối với họ, trống đồng không là một sản phẩm khảo cổ học nhưng là một phần văn hóa và căn cước quốc gia của họ.” Cá nhân chúng tôi, sau khi trực tiếp đọc bài viết của tác giả Han Siaorong, cũng nhận thấy có nhiều luận điểm mà các nhà khảo cổ học Trung Quốc và Việt Nam đưa ra dẫn chứng, đều mô tả và giải thích vừa mâu thuận và cũng vừa KHÔNG ĐÚNG VỚI Ý NGHĨA PHẢN ÁNH qua những nét đặc thù văn hóa trên trống đồng, nên xin mạn phép góp phần giải thích theo cách suy đoán và hiểu biết khác hơn của chúng tôi, với một số luận điểm như sau: I. Không phải cò sếu, mà là chim lặn bắt cá Theo học phái Trung Quốc, hình những “con chim bay” được khắc chạm trên trống đồng Ngọc Lũ (ở vòng thứ ba ngoài cùng) là loại cò, sếu; và họ tin rằng chính cư dân nước Sở ở đồng bằng Trung Nguyên Trung Quốc ngày xưa đã dùng trang trí trống đồng, sau đó mới lan truyền xuống các tộc ít người khác ở phía Nam. Trong khi ấy, học phái Việt Nam tuy cũng chấp nhận là loại cò, sếu, nhưng nhìn nhận đó là biểu tượng vật tổ “chim Lạc” của nhân dân Việt Nam. Dù vậy, theo kinh nghiệm hiểu biết cá nhân, chúng tôi nhận diện: đó không phải là hình thù của loại cò sếu trong tư thế đang bay, vì khi bay, chân chúng phải duỗi thẳng để bay. Nhưng, đây là LOẠI CHIM LẶN BẮT CÁ trong những đầm nước mặn hoặc nước lợ, dọc theo các vùng duyên hải, mà người địa phương Bình Định và một sổ tỉnh Miền Trung gọi là: CHIM CỒNG CỘC. Tra từ điển tiếng Anh, chúng tôi thấy có từ “cormorant”, hoặc “anhinga”, và được Từ điển Lạc Việt dịch là “chim cốc”. Xin xem hình đính kèm: Chim cồng cộc đang lội trong đầm kiếm cá. Chim cồng cộc trong tư thế bay lượn. Khi bắt cá, chim cồng cộc lặn sâu dưới nước và lặn xa hàng chục mét. Với tư thế của chim trong hình khắc chạm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, chúng tôi tin đó là tư thế của chim cồng cộc trong lúc rượt đuổi bắt cá. Chúng đang đưa ngang đôi cánh để vừa lái và vừa quạt, phối hợp với hai chân cũng đang trong tư thế quắp lại để quạt nhanh về phía trước. Những lúc “trời êm, bể lặng”, người đánh bắt cá đứng trên thuyền cũng có thể trông thấy cái tư thế rượt đuổi cá của chim, giống y hệt như trong hình khắc chạm trên trống đồng. Xin xem hình dưới được trích mượn từ bài viết “Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ” của học giả Lê Văn Siêu và do Lê ngọc Minh cập nhật ngày 9/9/2010.[3] Chim lạc khắc trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ Như vậy, theo thiển ý chúng tôi, người Việt xưa muốn biết chỗ nào có cá nhiều trong sông biển, có thể phải theo dõi sự xuất hiện của loại chim nước này. Và vì thế, cũng theo hiểu biết chúng tôi, đây mới là lí do xác thực để dân chúng Lạc Việt chọn loài chim nước này làm vật tổ. Bằng chứng là cho đến nay, không những chúng ta còn trông thấy những hình thù chiếc thuyền được chạm khắc trên trống đồng với đầu thuyền hình đầu chim và đuôi thuyền hình đuôi chim; mà ngay trên sông biển Việt Nam ngày nay, chúng ta vẫn còn trông thấy những chiếc ghe thuyền có vẽ hình mắt chim ở đầu ghe thuyền. Ngoài ra, sự xuất hiện của loại chim lặn bắt cá này ắt phải tùy thuộc vào thời tiết và mùa cá xuất hiện. Theo câu chuyện kể của học giả Đào Duy Anh, được Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng dẫn lại trong sách Nhìn lại SỬ VIỆT của ông, thì sở dĩ có tên gọi Lạc Việt là vì: Ngày xưa có một bộ lạc ở vùng biển Phúc Kiến, Trung Quốc. Hàng năm cứ theo gió mùa họ lại nhân gió bắc mà vượt biển đến các miền duyên hải ở phương Nam, đại khái là vùng Hải Nam và vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã của Việt Nam. Đến mùa gió nồm họ lại vượt trở về nơi căn cứ. Trong những cuộc vượt biển hàng năm đó, họ tự ví mình như con chim lạc, một loại chim nước ở vùng Giang Nam mà đến mùa đông họ thấy cũng rời vùng Giang Nam mà bay về nam đồng thời với việc xuất dương của họ. Đến mùa gió nồm họ lại cũng thấy những con chim lạc này cất cánh quay trở về vùng Giang Nam đồng thời với họ. Rồi ý niệm đó chuyển thành quan niệm tô-tem khiến họ nhận con chim lạc kia làm vật tổ. Cái tên vật tổ đó trở thành tên của bộ lạc và bộ tộc đó trở thành bộ tộc Lạc.[...] Sau này, khi nước Việt đời Xuân Thu bị nước Sở diệt, những tù trưởng dân Lạc ở xứ Mân (Phúc Kiến) kéo cả bộ lạc di cư về vùng đồng bắng miền Bắc Việt Nam mà trước đó họ đã biết rằng rất phì nhiêu. Đến đây họ còn giữ tên thị tộc cũ là Lạc. Và chính bằng tên ấy, Lạc, mà các nhà sử gia Trung Hoa gọi họ.[4] Ở đây, chúng tôi không bàn đến giá trị lịch sử của câu chuyện nói trên, nhưng chỉ muốn bàn thêm về nguồn gốc xuất phát của từ “Lạc” mà thôi. Theo chỗ chúng tôi biết, dân chúng bản địa ở một số tỉnh, từ Thừa Thiên, Quảng trị trở ra, gọi “nước” là “nác”, nhưng họ phát âm nặng giọng là “nạc”. Rồi “nạc”, có thể do những người địa phương ở miền Bắc lặp lại không đúng để thành “lạc”. Và hiện tượng biến âm này, ngày nay chúng ta vẫn còn nghe thấy. Hơn nữa, như chúng ta cũng biết, các vùng Bình Trị Thiên ngày xưa nguyên thuộc đất Chiêm Thành. Theo nghiên cứu của bác sĩ Stephen Oppenheimer, một nhà địa chất học, nhân chủng học, kiêm ngôn ngữ học và di truyền học người Anh, đã viết trong sách Eden in the East của ông, thì người Chàm có nguyên quán từ vùng đảo Borneo bị ngập lụt trong thời kì lụt biển Đông Nam Á (8.000-7.500 năm trước), và đã di dân đến sống ở vùng duyên hải Đông Dương khá lâu. Họ nói ngôn ngữ thuộc hệ Nam Đảo (Austronesian), tức một nhánh ngôn ngữ Mã Lai, và cũng là chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh.[5] Như vậy, chim “lạc” hay “Lạc” là do biến âm của từ chim “nước”. Nhưng, đã gọi là chim nước, thì ắt hẳn phải là một loại chim KIẾM ĂN DƯỚI NƯỚC, như chim cồng cộc, MỚI ĐÚNG NGHĨA HƠN LÀ LOẠI CÒ SẾU chỉ kiếm ăn trên những cánh đồng hoặc những vùng cạn ven đầm lầy. Mặt khác, cũng theo thiển ý chúng tôi, tên gọi “chim Lạc” này cũng có thể có ý nghĩa liên hệ với tên “sông Lạc”, “ruộng Lạc”, cũng như “Lạc Việt”, “Lạc Hồng”, v.v… Chẳng hạn, theo lời kể của sách cổ Thủy Kinh Chú dẫn lại Giao Châu ngoại vực ký, thì: “Đời xưa đất Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất được gọi là Lạc điền, nước lên xuống theo thủy triều. Dân cư cấy bừa trên ruộng đó để sinh sống” (Lê Mạnh Hùng, sđd, tr. 67). Hoặc theo nhận xét của cố Linh mục Giáo sư Lương Kim Định, được tác giả Phạm Trần Anh trích dẫn và viết lại trong sách Huyền tích Việt , thì “Hồng Hộc, chim nước của Việt tộc thể hiện nguyên lí Âm Dương Giao Chỉ vì nó vừa bay lên trời vừa xuống dưới nước.”[6] Còn theo nghiên cứu của GS Trần Ngọc Thêm viết trong sách Tìm về Bản sắc Văn hóa Việt Nam, thì “tên gọi Hồng Bàng trong họ Hồng Bàng có nghĩa là một loài chim nước lớn – bàng nghĩa là lớn.[7] Vì vậy, chúng tôi nhận thấy cả từ “Lạc” lẫn từ “Hồng” đều có liên hệ đến loại chim nước. Phải chăng đó chỉ là hai tên gọi của cùng một loại chim nước, hay là hai loại chim nước khác nhau (tức có cả chim lặn bắt cá lẫn loại cò sếu), mà xưa kia tổ tiên người Việt chúng ta đã xem như là vật tổ của đời sống vùng sông biển và đồng ruộng? Hoặc, cũng theo hiểu biết chúng tôi, “Lạc” và “Hồng” có thể là hai loại chim vật tổ khác nhau? Chim Lạc, như chúng ta đã hiểu từ ý nghĩa “lạc” là nước, nên ắt hẳn phải là loại chim nước vật tổ của tộc Lạc Việt. Còn chim Hồng có thể không phải là loại chim nước, mà là LOẠI CHIM KIẾM ĂN TRÊN RỪNG NÚI và có thể liên hệ đến chim ưng, chim ó, chim đại bàng, chim trĩ, hoặc một loại gà rừng nào đó. Vì, như chúng ta cũng biết, tổ tiên người Việt chúng ta gồm hai tộc chính: Lạc Việt và Âu Việt. Và đây có thể đã là điều liên hệ đến những hình khắc chạm trên trống đồng Ngọc Lũ (ở vòng thứ hai gần tâm trống) mà tác giả của bài viết “Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ” đã suy đoán: đó là “con gà”. Vì thế, cũng theo suy diễn của chúng tôi, nếu chim nước lặn bắt cá được xem như là vật tổ của dòng dõi Lạc Việt, thì loại chim ưng, chim ó, chim đại bàng, hoặc chim trĩ, gà rừng, có thể đã được xem như là vật tổ của dòng dõi Âu Việt chẳng? Vì chim trĩ, gà rừng (hay nai), đều là những loại thú mà tổ tiên Âu Việt, nguyên là du mục rừng núi, tìm kiếm săn bắn; còn chim ó, chim ưng, hay chim đại bàng tuy không phải loại thú săn bắn, nhưng khi chúng xuất hiện lượn quanh kiếm ăn trên một vùng bầu trời nào đó, thì đó là dấu hiệu thường được hiểu khu rừng đang có nhiều loại thú săn bắn — vì hình được khắc chạm trên trống đồng có tư thế bay lượn kiếm ăn. Xin xem hình bên dưới được trích mượn từ bài viết “Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ” của học giả Lê Văn Siêu và do Lê ngọc Minh cập nhật ngày 9/9/2010 [3]: Con gà khắc trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ Như vậy, những điều luận giải trên đã tỏ ra rất phù hợp với quá trình lịch sử của các tộc người Đông Nam Á. Vì như chúng ta cũng biết, dòng dõi Australoid đã di dân men theo đường biển Nam Á; còn dòng dõi Mongoloid thì di dân trong nội địa, xuyên qua các vùng rừng núi Trung Á. Nhưng sau đó, cả hai đều đã gặp gỡ hợp chủng để hình thành các tộc người tiền-Mongoloid ở Đông Nam Á và Đông Á, hoặc còn gọi là Mongoloid phương Nam – mà dân tộc Việt Nam, với quê quán văn hóa Hòa Bình, là một đại diện rất gốc gác. Thành thử, cũng theo thiển ý chúng tôi, đây có lẽ cũng là điều đã được huyền thoại hóa qua các truyền thuyết phục Hi, Nữ Oa, và Lạc Long Quân, Âu Cơ. Phan Châu Hồng Hoàn chỉnh ngày 24/12/2011 và 8/12/2012 Tham khảo (1) [1] Wikipedia: “Trống đồng.” Trên mạng: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%91ng_%C4%91%E1%BB%93ng [2] Han Xiaorong: “The Present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China.” Trên mạng: http://www.hawaii.edu/cseas/pubs/explore/han.html [3] Lê Văn Siêu: “Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ” (Lê ngọc Minh cập nhật ngày 9/9/2010). Trên mạng http://thuvienkhoahoc.com/tusach/%C3%9D_ngh%C4%A9a_nh%E1%BB%AFng_h%C3%ACnh_v%E1%BA%BD_tr%C3%AAn_b%E1%BB%81_m%E1%BA%B7t_tr%E1%BB%91ng_%C4%91%E1%BB%93ng_Ng%E1%BB%8Dc_L%C5%A9 [4] Lê Mạnh Hùng: Nhìn lại SỬ VIỆT. Tổ hợp xuất bản Miền Đông Hoa Kì, 2007, tr. 48-9. [5] Stephen Oppenheimer: Eden in the East. Weidenfeld & Nicolson, London, 1998, p. 153. [6] Phạm Trấn Anh: Huyền tích Việt. Nxb Việt Nam Ngày Mai, San Diego, California, 2004 (tr. 46). [7] Trần Ngọc Thêm: Tìm về Bản sắc Văn hóa Việt Nam. Nxb Tổng Hợp Tp Hồ Chí Minh, 2004, tr. 244-5.