Trở về sau chuyến đi thực tế ba ngày hai đêm tại xã Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa, dù là dân du lịch nhưng đoàn chúng tôi cũng không tránh khỏi sự mệt mỏi. Nhưng trên hết, đọng lại trong mỗi chúng tôi – những sinh viên Liên thông K7 cùng sinh viên Cao học K25 của khoa Việt Nam học là sự thích thú khi được đặt chân tới vùng đất mới, gặp những con người mới, hoàn cảnh sống mới…
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
Sáng 19.10, xe lăn bánh trở chúng tôi tới huyện Ngọc Lặc với những con người thân thiện, dễ mến và được biết đến là nơi sinh sống của các tộc người: Mường, Dao, Thái, Kinh với nhiều màu sắc văn hóa đa dạng, đan xen. Đoàn thực tế của chúng tôi có gần 50 sinh viên liên thông K7, 7 học viên Cao học K25 khoa Việt Nam học. Phụ trách đoàn và chỉ đạo chuyên môn có TS. Nguyễn Thị Thu Hoài – Phó chủ nhiệm khoa, TS. Hà Đăng Việt – Tổ trưởng tổ Văn hóa và TS. Ngô Thị Diễm Hằng - giảng viên tổ Văn hóa.
Sau nửa ngày triền miên trên cung đường dài, chiều cùng ngày, chúng tôi đặt chân tới nhà máy thủy đại Cửa Đạt. Theo chia sẻ của anh Trần Văn Quang - Trưởng chính Trung tâm, nhà máy thủy điện Cửa Đạt dùng tua bin phrasit với cột áp 6m (chiều cao) chủ yếu phục vụ về thủy lợi tưới tiêu là chính. Được biết, nhà máy thủy điện Cửa Đạt được xây dựng trên sông Chu (thuộc địa bàn huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa) có công suất lắp máy là 97 MW, bao gồm 2 tổ máy với tổng mức đầu tư khoảng 1.600 tỉ đồng.
Chia tay nhà máy thủy điện, chúng tôi tiếp tục lên đường di chuyển tới khu di tích Lam Kinh. Theo lời giới thiệu của chị hướng dẫn viên thì khu di tích lịch sử Lam Kinh cách TP. Thanh Hoá 50 km về phía Tây. Nằm trên địa bàn xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá, Lam Kinh quê hương đất tổ nhà Lê – nơi sinh ra anh hùng dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lừng lẫy chiến công thế kỷ 15, nơi tụ họp những anh hùng hào kiệt khắp bốn phương chung sức chung lòng đứng lên đánh giặc cứu nước. Đây là khu di tích mang nhiều ý nghĩa giá trị văn hoá thiêng liêng không chỉ của nhân dân Thanh Hoá mà của cả dân tộc.
Về với miền di sản xứ Thanh, nhóm sinh viên Việt Nam học như được mở mang tầm mắt, được tận mắt chứng kiến những di tích lịch sử, những danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà trước đó đã không dưới một lần đọc trong từng trang sách.
Những cuộc gặp gỡ tình cờ đầy ấm áp
Về với mảnh đất linh thiêng mang tên Thanh Hóa, khác với những chuyến đi chơi khác, lần này, chúng tôi được đặt chân tới những bản làng của tộc người Dao, Mường để cùng tìm hiểu về văn hóa nơi đây.
Lo lắng, e ngại… là tâm trạng chung của hầu hết sinh viên khi bắt tay vào công cuộc nghiên cứu ngay tại địa phương khi chưa hề biết trước nhân vật mình sẽ gặp là ai, tình huống nào sẽ xảy ra… tại nơi xa lạ này.
Trái ngược với những suy nghĩ ban đầu, khi đặt chân tới bản làng của người Mường, điều đầu tiên khiến chúng tôi bất ngờ là những ánh mắt thân thiện, những nụ cười vui vẻ, sự chia sẻ niềm nở, nhiệt tình của người dân nơi đây và cái nắm tay ấm áp của bà cụ người Mường khi dẫn chúng tôi về nhà trong buổi trưa nắng gắt. Những lời mời trìu mến, sự ân cần đó khiến mỗi người trong chúng tôi cảm thấy mình như một phần của nơi đây; không chỉ đơn thuần đi tìm hiểu, học hỏi, nghiên cứu mà chúng tôi như dần hòa vào cuộc sống thường nhật của người dân.
Trời càng về chiều càng nắng gắt, chúng tôi di chuyển qua một con đường đất đậm chết núi lên tới những ngôi nhà nằm khá sâu trong làng bản của người Dao. Qua hỏi thăm, chúng tôi tìm đến một ngôi nhà nằm cuối làng của một bà cụ người Dao sống đơn độc một mình. Qua trò chuyện, bà kể lại: “Qua biến cố của chiến tranh, bà về làm dâu tại nơi đây. Dù sinh được ba người con nhưng không may hai trong số đó đã qua đời, người con còn lại cũng đi làm xa, thỉnh thoảng mới về thăm bà. Ngày nào bà cũng đi ra đi vào, trò chuyện với hàng xóm cho qua ngày”. Dù cuộc sống của bà chỉ quanh quẩn trong ngôi nhà nhỏ bé nhưng chưa lúc nào nụ cười tắt trên gương mặt in hằn vết thời gian của bà. Trò chuyện, bà kể và chỉ cho chúng tôi những nét đặc sắc trên trang phục truyền thống của người Dao quần chẹt.
Buổi tối, thật là may mắn khi đoàn chúng tôi có dịp được dự Lễ cấp sắc của người Dao địa phương. Đây là một sinh hoạt văn hóa mang nét giá trị đặc sắc của người Dao còn bảo tồn về cơ bản cho đến nay. Các nghi lễ chính trong lễ cấp sắc gồm lễ trình diện, gia chủ mổ lợn để tế lễ tổ tiên, sau đó thầy cúng làm lễ khai đàn, nhằm báo cho tổ tiên biết lý do của buổi lễ. Ở lễ thụ đèn, người được cấp sắc ăn mặc chỉnh tề ngồi trước bàn thờ, hai tay giữ một cây tre, nứa, ngang vai có đục và xuyên một thanh ngang dài vừa tầm vai để thày đốt đèn, đặt nến để làm lễ. Đặc biệt trong lễ cấp sắc là cấp đạo sắc cho người thụ lễ với 10 điều cấm và 10 điều nguyện, tại đạo sắc này tên âm của người thụ lễ được ghi luôn để khi chết về được với tổ tiên. Quan trọng nhất trong nghi lễ là cấp pháp danh cho người thụ lễ. Người thụ lễ lấy vạt áo để hứng gạo từ thầy cả và bố đẻ. Sau đó các thầy sẽ dạy cho người thụ lễ một số điệu múa. Cho đến giờ, nhiều nghi lễ đã được bớt đi, thời gian hành lễ do đó giảm từ 4-5 ngày trước đây xuống chỉ còn 2 ngày. Dù không có điều kiện tham dự trọn vẹn một cuộc hành lễ nhưng những gì được chứng kiến đã cho chúng tôi những ấn tượng vô cùng thú vị.
Những cảm xúc thật khó nói!
Kết thúc ngày thứ 2 với đôi chân đau nhừ như muốn gẫy, tối đến là không gian của âm nhạc, của tuổi trẻ và tình đoàn kết bên ngọn lửa rực cháy.
Chương trình giao lưu văn nghệ diễn ra chỉ vẻn vẹn trong vài tiếng buổi tối ngắn ngủi nhưng trên hết đó là tâm huyết của các sinh viên, sự ủng hộ của các thầy cô, của người dân địa phương và đặc biệt là sự tham gia nhiệt tình của các em nhỏ nơi đây. Những nụ cười giòn tan, những cái xiết tay thật chặt luôn là một kỉ niệm khó phai và nó còn cháy mãi như ngọn lửa kia.
Sau chuyến đi, quay trở về Hà Nội với những công việc thường nhật, bạn Thu Nga (liên thông VNHK7) chia sẻ: “Từ bé chưa bao giờ có ý định làm "cán bộ". Vậy mà lần này tập tành làm cán bộ văn hóa. Có đi mới biết, cái chân nó thích đi lại đến nhường nào, có hỏi mới biết, mình vẫn ham hố nghe, ham hố hỏi, ham hố nhiều nhiều nữa, chỉ tiếc chẳng có đủ thời gian. Có nhìn mới thấy, còn quá nhiều những điều yêu thương đến từ sự tự nguyện chứ chẳng phải vì lợi lộc, vinh hoa”.
Còn theo những thành viên khác, chuyến đi này như một món quà vô giá khi đôi chân được trải nghiệm, đôi mắt được khám phá, đôi tai được nghe những điều mới, đôi tay được xiết chặt… và trái tim được bồi thêm niềm tin, sự yêu thương như ngọn lửa rực cháy trong đêm trại.
Sau đây là những hình ảnh của chuyến đi:
Đoàn chụp ảnh lưu niệm tại Khu du lịch Lam Kinh
TS. Nguyễn Thị Thu Hoài cùng đoàn đến thăm bản người Mường
TS. Nguyễn Thị Thu Hoài cùng lớp Cao học chụp ảnh lưu niệm tại Thủy điện Cửa Đạt
Công tác chuẩn bị cho đêm lửa trại
Đêm lửa trại 20-10
Đoàn tặng quà cho con em dân tộc vượt khó học giỏi
Khung cảnh Lễ cấp sắc
Đoàn chụp ảnh lưu niệm tại Nhà máy thủy điện Cửa Đạt
Nghe thuyết trình về di tích Lam Kinh
Tặng quà cho bà con
TS. Hà Đăng Việt hỏi chuyện đồng bào Mường
Tiết mục múa của đồng bào Dao Ngọc Lặc
Trải nghiệm trang phục Mường
Trong một gia đình đồng bào Mường
Thu Anh
Lớp Liên thông K7 Việt Nam học