Ngôi làng nằm không quá xa trong trung tâm thành phố nhưng toát lên vẻ cổ kính, giản dị, mang lại cảm giác nhẹ nhàng trong những ngày cuối năm hối hả.
Xuôi đường từ Trường đại học Sư phạm Hà Nội, lớp Liên thông Việt Nam học K7 chúng tôi cùng nhau đi về ngôi làng Đông Ngạc – làng khoa bảng có tiếng của đất Hà Thành. Ngôi làng này nằm ngay trên triền đê sông Hồng, cách chân cầu Thăng Long chỉ độ 50 - 60m. Một vùng đất nổi tiếng với câu thơ "Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ".
Dù không nằm cách trung tâm thành phố quá xa nhưng về với nơi đây không khí bỗng trong lành hơn cả. Mới đến lần đầu hay đã có dịp ghé qua đây, không ai trong chúng tôi là không trầm trồ trước những ngôi nhà cổ kính, mái ngói rêu phong, đường làng thẳng tắp, yên bình… khác hẳn với không khí hối hả, xô bồ thường ngày.
Không gian tĩnh lặng giữa chốn đô thị náo nhiệt
Sau khi dành chút thời gian tham quan, tận hưởng bầu không khí trong lành, êm ả trong cái nắng cuối đông, chúng tôi được mở mang kiến thức khi nghe chính bác Lê Văn Đôn – trưởng ban di tích đình Vẽ giới thiệu về ngôi làng cổ có truyền thống khoa bảng lâu đời.
Theo lời bác Đôn, ngôi làng đã hình thành được khoảng 1000 năm (khi Lý Ông Trọng lấy con vua Tần Thủy Hoàng). Từ xưa đến nay, người ta thường gọi làng Vẽ là làng văn hiến. Với vị trí địa lý thuận lợi, phía Bắc giáp làng Thụy Phương, phía Nam giáp Xuân Đỉnh, phía Đông giáp Nhật Tảo, Phú Thượng, phía Bắc: giáp sông Hồng, làng Vẽ được biết đến là ngôi làng mặt trông ra sông lưng dựa vào núi.
Được biết, làng Vẽ là nơi địa linh nhân kiệt, sản sinh ra nhiều người tài. Từ thời Lê - Nguyễn, làng đã có khoảng 25 tiến sĩ (gồm 21 vị tiến sĩ, 1 vị tiến sĩ võ, có những năm các triều vua trước đây không mở thi tiến sĩ mà mở thám hoa, bảng nhãn).
Tiếp tục chuyến hành trình tìm hiểu về làng khoa bảng Đông Ngạc, chúng tôi được tận mắt chiêm ngưỡng không gian hoài cổ với những cột gỗ, hoành phi, câu đối không hề bị thời gian làm phai màu. Trải qua bao thăng trầm, ngôi đình làng Vẽ vẫn giữ được vẻ kiên cố. Hiện tại, đình làng Vẽ thờ 3 vị: Thiên thần (Thần Độc Cước), Nhân Thần (Thần Lê Khôi), Địa Thần (thần Thổ Địa). Ngoài ra, đình làng còn thờ cụ Đức ông Mạc Quản Công, giúp việc cho Thần Độc Cước – người có công trừ tai họa và giúp dân làng chữa bệnh.
Không gian làng nói chung và đình Vẽ nói riêng đều toát lên vẻ đẹp cổ kính với lối kiến trúc cổ đan xen trường phái Pháp cổ. “Khi quan sát từ trên đê sông Hồng nhìn xuống, đình làng mang dáng dấp hình đầu rồng, Tam quan ngoại là mũi con rồng, hai bên có 2 hồ Nhật - Nguyệt tượng trưng cho mắt rồng, Tam quan nội: trán rồng, trong cung là hình ảnh của cổ rồng”, ông Đôn nói.
Hiện tại, đình còn lưu giữ 45 sắc phong ở các triều đại và được xếp hạng lịch sử từ tháng 1.1994.
Tinh thần hiếu học được gìn giữ và lưu truyền
Từ xa xưa, Đông Ngạc đã được biết tới là làng khoa bảng có tiếng chốn Hà Thành. Vốn đang theo đuổi, tìm hiểu về truyền thống khoa bảng đất thủ đô, chúng tôi may mắn khi được tìm hiểu về tinh thần hiếu học của các dòng họ tại nơi đây.
Ông Nguyễn Hữu Mạc – người dòng họ Nguyễn chia sẻ: “Từ khi lập làng (năm 1346), theo tộc phả có ghi lại, các cụ dòng họ Nguyễn quê vốn ở Thanh Hóa ra định cư ngoài này. Năm 1346, cơ số cư dân mới đủ để công nhận là một đơn vị hành chính, làng Đông Ngạc mới được thành lập, dòng họ Nguyễn là dòng họ đầu tiên về định cư ở làng cùng dòng họ Phạm (chênh lệch khoảng 10 năm), sau đó đến dòng họ Phan, thời kỳ Lê Trung Hưng là dòng họ Đỗ”.
Theo quan sát, trên bức hoành phi có ghi “Đông Nguyễn Từ Đường” nhằm khẳng định dòng họ Nguyễn là dòng họ đầu tiên của làng, về sau này có rất nhiều dòng họ Nguyễn Đình, Nguyễn Hữu…
Nói về truyền thống khoa cử, ông Mạc cho biết các cụ đời đầu của dòng họ Nguyễn chủ yếu từ thời Hậu Lê. Sau khi Lê Thái Tổ (Lê Lợi) lên ngôi, những năm đầu có mở khoa thi nhưng không lấy tiến sĩ, các cụ chỉ đỗ Tam trường, Tứ trường sau đó ra làm quan. Đến thời Lê Thánh Tông, tổ chức khoa Minh Kinh là khoa thi đầu tiên có lấy tiến sĩ, có cụ Phan Phu Tiên là người đầu tiên của làng đỗ tiến sĩ thời Hậu Lê, lúc đó cụ 61 tuổi, được làm chức sử quan (chép sử cho nhà Hậu Lê).
Được biết, dòng họ Nguyễn không nhiều người đỗ tiến sĩ, có 1 cụ đỗ vào năm 1838 là cụ Nguyễn Văn Tùng (đời thứ 14) đỗ tiến sĩ thời nhà Nguyễn. Tuy không có nhiều cụ đỗ cao về tiến sĩ, song về phẩm hàm các cụ làm đến chức Tam công (tam phẩm).
Cụ thể, cụ tổ đời thứ 2 của dòng họ Nguyễn, khi mất được vua phong thụy là “thái truyền”, đương thời làm ở trung thư, học vị là Tam trường. Cụ Nguyễn Văn Tùng có được trước tác là “Hoa Ngạc Vị” (bài phú) được lưu lại tại thư viện Hán Nôm ở Huế.
“Hiện tại, trong dòng họ, thế hệ trẻ tiếp nối truyền thống học hành của dòng họ (kỹ sư, bác sĩ, giáo viên…). Tiêu biểu về văn hóa có ông Nguyễn Văn Ngọ làm đại biểu Quốc hội”, ông Mạc khẳng định.
Cũng theo lời chia sẻ của người dòng họ Nguyễn, trong gia đình, con cháu vẫn theo truyền thống các cụ xưa, có sự chịu ảnh hưởng của những vấn đề mới, cách tân, song phần nhiều vẫn giữ được mặt tích cực. Trong dòng họ cũng có chinh sách khuyến khích học tập như lập quỹ khuyến học nhằm khuyến khích con cháu trong học tập. Song vì con cháu ở xa, mỗi người một nơi, nên phong trào phát động chưa được sâu rộng.
Tiếp tục dọc theo con đường làng thẳng tắp, chúng tôi tìm đến nhà thờ họ dòng họ Phan. Theo lời kể của ông Phan Trác Thuật, đây là nhà thờ thuộc chi Cơ - một nhánh của chi họ Phan. Ngày xưa, các cụ trong làng chia làm 7 chi họ Phan, mỗi xóm có 1 chi, tại xóm này có 2 chi với ccách đặt tên 7 chi dựa vào 7 ngôi sao có từ thời Nguyễn Trãi.
“Nhà thờ được xây dựng tính đến nay là được 22 đời (hơn 400 năm). Đây là nhà thờ có niên đại lâu nhất trong làng. Kiến trúc trong ngôi nhà thờ thuộc chi họ Phan gồm tiền tế, hậu cung và có kiến trúc từ thời Lê Trung Hưng”, ông Thuật lý giải.
Cũng theo lời giới thiệu của bác Thuật, dòng họ có nhiều người làm tiến sĩ, đi du học nhưng chủ yếu là tự học. Thời xưa, không có trường, chỉ có các thầy đồ mở lớp dạy học trò nhưng những người này đều đỗ đạt cao.
Mỗi năm, dù con cháu ở xa nhưng vào ngày giỗ tổ, dù bận trăm công nghìn việc, con cháu khắp nơi đều về đây quây quần. Dù chỉ có một khoảng thời gian ngắn trải nghiệm và tiếp xúc với những người dân nơi đây nhưng ai nấy trong chúng tôi đều cảm nhận được nếp sống rất mộc mạc, giản dị và hiếu khách của người dân nơi đây.
Sau đây là một số hình ảnh về làng Đông Ngạc:
Toàn cảnh nhà thờ họ Phạm
Không gian bên trong nơi thờ tự
Nơi thờ tự
Tấm bia ghi danh những người đỗ đạt qua các thời kỳ
Sơ đồ phả hệ họ Phạm
Thu Anh